Đời An Lạc Khi Não Phiền Biền Biệt

Thạch Hàn Liệu Pháp

 

T H Ư   V I Ệ N   S Ứ C   K H Ỏ E

 

Thạch Hàn Liệu Pháp

 

I. Giới Thiệu Chung :

Thuật ngữ Hàn Liệu Pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (cryo (κρύο) có nghĩa là lạnh (hàn), và liệu pháp (θεραπεία) có nghĩa là chữa bệnh), là phương pháp sử dụng nhiệt độ thấp trong trong trị liệu.

Hàn liệu pháp thúc đẩy sự co thắt các mạch máu (co mạch) giúp giảm viêm, giảm đau và các chứng co thắt giúp cho các tế bào khỏe mạnh. Nên Hàn liệu pháp được ứng dụng nhiều trong y học, thể thao như đặt túi nước đá trên một khu vực bị thương hoặc đang bị sưng, phù nề sẽ làm chỗ sưng ngay lập tức co mạch, nhiệt độ lạnh sẽ giảm hoạt động của cơ bắp và làm chậm tốc độ dẫn truyền thần kinh cũng như các hoạt động giao cảm phản xạ ban đầu.

Trong phương pháp Hàn liệu pháp, việc sử dụng nhiệt độ cực lạnh nhằm để kết tinh những tinh bào tương, đó là chất lỏng tìm thấy bên trong các tế bào. Trong y học, có thuật ngữ Phẫu thuật lạnh là ứng dụng nhiệt độ cực lạnh để tiêu diệt tế bào bất thường hoặc bệnh; điều trị một số bệnh và các rối loạn chức năng cơ thể, đặc biệt là các bệnh về da như mụn cóc , nốt ruồi , tàn nhan, đồi mồi . Phẫu thuật lạnh thường dùng Nitơ lỏng để đóng băng các ở cấp độ tế bào. Còn để đóng băng được các khối u người ta phải sử dụng nhiệt độ lạnh đến -1500 C.

II. Lịch Sử :

Hàn Liệu Pháp đã được áp dụng ở dạng băng, tuyết, hoặc hỗn hợp các chất làm mát khác nhau.

Tại Ai Cập cổ đại 4000 năm trước : Hàn Liệu Pháp được sử dụng như là một phương tiện điều trị vật lý đã được nghiên cứu và sử dụng  thông qua tác phẩm “Edwin Smith’s Surgical Papyrus”, tác phẩm y học cổ xưa nhất do Imhotep, một vị danh y của Ai Cập cổ đại viết ra. Ông mô tả người Ai Cập tạo ra nước đá để trị liệu , họ nhận thấy sử dụng hàn liệu pháp có hiệu quả trong việc giảm thiểu sự đau đớn của chấn thương và giảm viêm.

Trung Quốc, cách đây 3100 năm (1100 trước CN) : các thầy thuốc làm nước đá trị liệu bằng cách để xô nước trên mái nhà cho đóng băng.

Thầy thuốc Ả Rập Ibn Abi Usaibia trong thế kỷ thứ 4 : mô tả một hỗn hợp làm mát sử dụng nước lạnh và tiêu thạch (một hỗn hợp của natri và kali nitrat) để chữa bệnh

Người Hy Lạp cổ đại : thường xuyên tắm mình trong nước lạnh, điều đó làm cho họ mạnh mẽ hơn và khỏe khoắn hơn.

Hippocrates (460-370 trước Công nguyên), một bác sĩ người Hy Lạp cổ đại, người thường được gọi là cha đẻ của y học phương Tây, thấy rằng Hàn Liệu Pháp sử dụng cục bộ có khả năng làm giảm sưng, ngưng chảy máu và bớt đau đớn. Trong sách của Hippocrates, ông mô tả hàn liệu pháp sử dụng trong điều trị xuất huyếttụ máu như sau: “Làm lạnh vết thương sẽ làm cứng lại vùng da xung quanh và gây ra một cơn đau âm ỉ. Nó sẽ gây hoại tử và làm đông máu.”

Cho nên Hàn Liệu Pháp nên được sử dụng trong các trường hợp sau đây:

1) Xuất huyết : làm lạnh để ngăn chặn xuất huyết – không được áp trực tiếp vào phần đang chảy máu mà phải áp vào các khu vực xung quanh.

2) Tất cả các trường hợp bị viêm : áp gần nơi thịt có màu sáng đỏ hoặc đỏ bầm

Trong “Trường ca Iliad” của Homer có đề cập đến việc sử dụng Hàn Liệu Pháp lên vết thương trong các cuộc chiến của thiên trường ca nổi tiếng này

Trong thế kỷ XI, Avicenne (980 – 1037) một nhà triết học, nhà văn , bác sĩ và nhà khoa học thời trung cổ Ba Tư : ông đã quan tâm trong nhiều ngành khoa học, ông nghiên cứu và viết một cuốn sách về các đặc tính gây mê của Hàn Liệu Pháp.

Trong thế kỷ thứ 16, bác sĩ SeverinoNaples : sử dụng Hàn liệu Pháp để gây mê.

Những quyển sách y học đầu tiên bàn về việc sử dụng Hàn Liệu Pháp được xuất bản năm 1661 bởi T. Bartholini của Copenhagen : đó là quyển “De Nivi Usu Medico” và quyển “De Figura Nivis Dissertatio

Vào năm 1650, bác sĩ W.Harvey dựa theo sách của Hippocrates : trong việc sử dụng Hàn Liệu Pháp để chữa bệnh gút cấp tính của chính mình và ông đã thành công.

Dominique-Jean Larrey, trưởng bác sĩ phẫu thuật cho quân đoàn của Napoleon : đã mô tả trong quyển “Hồi Ký Phẫu thuật” về việc sử dụng tuyếtnước đá để phẫu thuật cắt tay, chân mà không cần thuốc gây tê hoặc gây mê.

Năm 1862, Edwin Smith phát hiện ra một bản giấy cói của Historical SocietyNew York vào năm 1930 : bản giấy cói này được viết bằng mực đỏ và đen, trong đó mô tả Hàn Liệu Pháp được sử dụng để điều trị vết thương bị nhiễm trùng, gãy xương, vỡ hộp sọ và những vết thương chiến tranh khác nhau.

Bác sĩ W. Cullen (1791-1867) từ năm 1823 – 1845 đã hóa lỏng được : oxy, nitơ, carbon monoxide & carbon dioxide, methanehydrogen.

Cùng thời gian đó Carnot, ThomsonJoule trong ngành nhiệt động lực học đã phát minh ra tủ lạnh với khí hóa lỏng trong ống đồng.

Cùng lúc bác sĩ Joule-Thompson : thí nghiệm thành công sử dụng khí hóa lỏng làm lạnh mao mạch.

Vào năm 1777 nghiên cứu của bác sĩ J. Hunter : đã cho thấy tác dụng Hàn Liệu Pháp trong điều trị các khối u.

Năm 1849, Bác sĩ J.H. Bennett từ Edinburgh tiếp tục nghiên cứu và điều trị ung thư bằng Hàn Liệu Pháp.

Từ 1845-1851 bác sĩ James Arnott (1797-1883), một bác sĩ người Anh từ Brighton : đã áp dụng nghiên cứu của J.Hunter để điều trị các khối u, các chứng đau đầu và thần kinh.

  • Năm 1851 tại buổi “Trao đổi học thuật trị liệu” tại Hyde ParkLondon, ông đã trình bày “Hàn Liệu Pháp” bằng cách sử dụng một hỗn hợp của nước đá và muối để “hạ nhiệt độ cục bộ tại một bộ phận trên cơ thể xuống -12°C”.
  • Là một người phản đối mạnh mẽ việc gây mê bằng chất chloroform bởi các tác hại của nó, ông đề nghị sử dụng phương pháp trên để thay thế khi gây tê cục bộ” vì nó vô hại.
  • Ngoài ra ông còn báo cáo về việc sử dụng Hàn Liệu Pháp trong điều trị ung thư vú, ung thư cổ tử cungung thư da.
  • Ông nhận thấy rằng sử dụng Hàn Liệu Pháp cho những bệnh nhân ung thư khiến họ không đau đớn và các khối ukhi bị làm lạnh ở nhiệt độ -12°C đã bị tiêu diệt triệt để”.

Những kỹ thuật này đã được sử dụng cho đến năm 1866, khi B.W. Richardson : phát triển thành kỹ thuật phun ête làm lạnh cục bộ.

Năm 1891, bác sĩ C. Redard : đề nghị sử dụng etyl clorua để đạt nhiệt độ thấp hơn nữa.

Năm 1871 J.F.A. Von Esmarch Kiel xuất bản sách “Sử dụng Hàn Liệu Pháp trong phẫu thuật”.

Trước đó cũng đã có một số tác phẩm cùng đề tài của T. Bell vào năm 1830 và J.H. Bennes năm 1849, T. Weedon-Cook vào năm 1865.

Nhiều tác giả đã xuất bản các tác phẩm về sử dụng Hàn Liệu Pháp trong các bệnh:

Bác sĩ C. Gerhardt vào năm 1885 : sử dụng Hàn Liệu Pháp cho người bị lao và da liễu

Bác sĩ Openchowski vào năm 1833 : sử dụng Hàn Liệu Pháp để điều trị viêm cổ tử cung mãn tính.

Năm 1882, bác sĩ L. Lortat Jacob Lallier tại Bệnh viện Saint-LouisParis : là người đầu tiên sử dụng nhiệt độ cực lạnh (dùng methyl chloride cho ra nhiệt độ là –55°C) để điều trị các khối u.

Năm 1889, bác sĩ Campbell White New York : sử dụng không khí lỏng để điều trị các bệnh về da, bao gồm cả bệnh lupus ban đỏ, herpes zoster, hạ cam, mụn cóc.

Năm 1907, bác sĩ Whitehouse, cũng đến từ New York : báo cáo bệnh nhân ung thư da 15 năm đã được điều trị bằng Hàn Liệu Pháp với kết quả tốt.

Oxy hóa lỏng (-182,9°C) đưa vào sử dụng lâm sàng trong năm 1920 : bác sĩ Irvingbác sĩ Turnacliff ứng dụng với kết quả rất tốt với mụn cócbệnh ngoài da.

Năm 1948 KileWelsh đã viết một trong những báo cáo mới nhất về việc sử dụng oxy hóa lỏng trong một loạt trường hợp của hơn 1.000 bệnh nhân với nhiều loại bệnh như : mụn cóc, u mạch, vảy sừng và bạch sản.

Từ năm 1961 đến năm 1970, bác sĩ Douglas Torre, một bác sĩ da liễu : dùng Hàn Liệu Pháp với oxy hóa lỏng điều trị nhiều loại ung thư biểu mô tế bào.

Năm 1993, Christian Cluzeau phát triển các phương pháp áp lạnh khí hyperbaric còn gọi là NeuroCryoStimulation hoặc NCS : ngay lập tức có thể làm giảm đau bằng cách tác động vào bốn hiệu ứng sinh lý:

  • Giảm đau
  • Co mạch
  • Chống viêm
  • Thư giãn cơ bắp

Kỹ thuật này, thực hiện bởi một số bác sĩ, vật lý trị liệu và bác sĩ thú y bao gồm trong việc áp dụng Hàn Liệu Pháp một cách cục bộ ngay trên da của vùng bị đau trong một thời gian ngắn : đó là dùng carbon dioxide để tạo ra độ lạnh -78,3 ° C (-109 ° F) với một áp lực là 5,0 MPa (50 bar) trong tần số 400 Hz. Kỹ thuật này không gây bỏng lạnh và rất an toàn

Hiện nay, Hàn Liệu Pháp toàn thân : được áp dụng ở nhiều nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, Úc Châu Âu.

  • Liệu pháp này dùng nito lỏngkhông khí khô (dưới -100°C) trong một phòng kín (được gọi là buồng WBC) dùng chữa bệnh đa xơ cứngviêm khớp dạng thấp, . Bệnh nhân sẽ mặc quần áo tối thiểu để giảm nguy cơ tổn thương do lạnh như quần ngắn, găng tay, mũ len che tai, một mặt nạ, giày khô và vớ.
  • Các buồng WBC đầu tiên được xây dựng tại Nhật Bản vào cuối năm 1970, và được đưa đến Châu Âu năm 1980, còn ở MỹÚc là trong thập kỷ vừa qua.
  • Buồng WBC được cung cấp tại hơn 50 bệnh viện Châu Âu và các phòng khám y tế, ngoài ra nó còn được thực hiện ở nhiều spa, và các cơ sở đào tạo trong thể dục thể thao.

Từ cuối thế kỷ 20, phẫu thuật lạnh có một sự phát triển rất lớn. Đi sâu vào của ba chủ đề quan trọng trong phẫu thuật lạnh :

  • (a) Các cơ chế sinh hóa và sinh lý của sự phá hủy mô trong phẫu thuật lạnh.
  • (b) Thiết bị đóng băng mới.
  • (c) Giám sát và chụp ảnh kỹ thuật phẫu thuật lạnh.

Một tiến bộ công nghệ mới trong phẫu thuật lạnh là sự phát triển của siêu âm mổ để theo dõi quá trình điều trị. Cách thức sử dụng là thăm dò trong các bệnh bằng siêu âm, CT hoặc MRI. Nếu phát hiện vị trí của khối u, nhiều đầu dò có thể được chèn vào và làm lạnh đến -160oC cùng một lúc để tiêu diệt khối u.

Ứng dụng lâm sàng này đã trở nên phổ biến trong 10 năm qua, đặc biệt là trong ung thư tuyến tiền liệt. Ngoài ra còn ứng dụng trong điều trị ung thư : gan, phổi, não, , xương, tuyến tụy, thận, tử cung.

Trong thời gian gần đây, số lượng lớn các nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng đã xuất hiện. 14 hội nghị quốc tế về phẫu thuật lạnh đã được tổ chức tại Châu ÂuChâu Á. Chủ tịch hiện tại của Hiệp hội Quốc tế về Phẫu thuật lạnh, tiến sĩ Franco của Ý đã góp vào sự phát triển của phẫu thuật lạnh trên toàn thế giới. Tạp chí “Cryobiology” đã được xuất bản 57 tập. Khoảng 29.000 tài liệu về phẫu thuật lạnh cho ung thư được công bố trong một loạt các tạp chí học thuật.

Trong những năm qua, nhiều học giả đã thực hiện công việc nghiên cứu ứng dụng này như :

Phẫu thuật lạnh – ung thư tuyến tiền liệt : Onik GM [27] (USA), Bahn DK [28] (USA), Cohen JK [29] (USA)

Phẫu thuật lạnh – ung thư gan : Chu XD [30] (Trung Quốc), Seifert JK [31] (Đức), Mala T [32] (Na Uy), Adam R [33] (Pháp)

Phẫu thuật lạnh – nội soi ung thư gan : Lezoche E [34] (Italy)

Phẫu thuật lạnh qua da của bệnh ung thư gan : Nakazaki H [35] (Nhật Bản), Xu KC và Niu LZ [36] (Trung Quốc)

Phẫu thuật lạnh – Endobronchial ung thư phổi : Maiwand MO [37] (Anh)

Mở phẫu thuật lạnh của bệnh ung thư phổi : Maiwand MO [37] (Anh)

Phẫu thuật lạnh qua da của bệnh ung thư phổi : Kawamura M [38] (Nhật Bản), Niu LZ và Xu KC [39] (Trung Quốc), Wang HW [40] (Trung Quốc)

Phẫu thuật lạnh của bệnh ung thư tuyến tụy : Korpan NN (Áo) [26], Xu KC và Niu LZ [41] (Trung Quốc)

Phẫu thuật lạnh của bệnh ung thư vú : Sabel MS [42] (USA), Kaufman CS [43] (USA), Staren ED [44] (USA)

Phẫu thuật lạnh của ung thư thận : Delworth MG [45] (USA), Rukstalis DB [46] (USA)

Phẫu thuật lạnh nội soi ung thư thận : Gill LÀ [47] (USA), Moon TD (USA) [48]

Phẫu thuật lạnh qua da của bệnh ung thư thận : Harada J [49] (Nhật Bản), Sewell PE [50] (USA), Shingleton WB [51] (USA), Gore JL [52] (USA), Kodama Y [53] (Nhật Bản)

Phẫu thuật lạnh của u xơ tử cung : Cowen BD [54] (USA), Dori M [55] (Nhật Bản), Zupi E [56] (Italy), Zreik TG [57] (USA), Duleba AJ [58] (USA)

Phẫu thuật lạnh và miễn dịch : Joosten JJ [59] (Hà Lan), Matsumura RB [60] (Nhật Bản), Miya K [61] (Nhật Bản)

Phẫu thuật lạnh và hóa trị liệu : Ikekawa S [62] (Nhật Bản), Mir LM [63] (Pháp), Baust JG [64] (USA)

III. Các liệu pháp dân gian:

Trị sốt : khi bị sốt dùng khăn nhúng nước lạnh và đắp lên trán để hạ sốt.

Trị đau rát do bị bỏng : khi bị bỏng, lập tức rửa sạch vết bỏng bằng nước lạnh, sau đó chườm lạnh vào chỗ bị bỏng có thể giúp giảm đau, ngăn ngừa tấy đỏ và mọng nước.

Chữa chảy máu cam : khi bị chảy máu mũi (máu cam), nên chườm lạnh vùng mũi, máu lập tức ngưng chảy.

Trị bệnh gút : chườm đá giúp giảm đau ở bệnh nhân gút.

Trị đau do bong gân : khi người bệnh đau do té ngã làm bong gân, phù chân thì dùng túi đá lạnh để chườm.

IV. Thạch Hàn – Nhiệt Liệu Pháp :

Ảnh hưởng của các cơ quan liên hệ với vùng được chườm :

Khi chườm nóng, chườm lạnh không những chỉ ảnh hưởng ngoài da nơi vị trí chườm mà còn ảnh hưởng đến các cơ quan nằm sâu trong cơ thể.

Vùng được chườm Cơ quan được ảnh hưởng :

Đầu mặt, bàn tay, bàn chân Não bộ

Phần sau của cổ Niêm mạc mũi

Hai bên ngực Phổi

Trước giữa ngực Tim

Hạ sườn phải Gan

Hạ sườn trái Lách

Thượng vị Dạ dày

Trung vị Ruột

Hạ vị – Xương cùng Cơ quan vùng chậu

Thắt lưng Thận

Lòng bàn tay, chân Não

Tác dụng của chườm nóng – chườm lạnh :

Tổ chức Chườm nóng Chườm lạnh

Da – Tăng nhiệt độ của da làm ấm nóng đỏ. Tăng sự bài tiết của da. Giảm nhiệt độ của da làm lạnh nhợt nhạt.

Giảm sự bài tiết của da.

Các mô liên kết của da – Giãn cân cơ, giảm co thắt.

Mạch máu – Giãn mạch, tăng tuần hoàn ngoại vi. – Co mạch, giảm mạch giảm phù nề.

Thần kinh – Mức độ trung bình: làm êm dịu. – Giảm kích thích đầu dây thần kinh.

Chuyển hóa tế bào Mức độ cao làm kích thích.

Tăng cường sự hoạt động của tế bào.

Kích thích sự tăng trưởng và phục hồi của các tổ chức.

Tăng cường sự xâm nhập của bạch cầu tăng tốc độ nung mủ. Giảm cảm giác.

Giảm sự tăng trưởng sự xâm nhập của bạch cầu.

Giảm tốc độ nung mủ.

Chống chỉ định trong Chườm Nóng :

• Phụ nữ có thai

• Trẻ em dưới 5 tuổi

• Viêm ruột thừa.

• Viêm màng bụng cấp.

• Xuất huyết những vùng không có cảm giác.

• Đau bụng không rõ nguyên nhân.

Mục đích Chườm lạnh

• Làm hạ nhiệt độ.

• Làm dịu cơn đau.

• Cầm máu.

• Bớt sưng.

• Bớt xung huyết tại chỗ.

• Giảm nhịp đập của tim.

• Chậm nung mủ.

Chỉ định Chườm lạnh :

• Xuất huyết.

• Chấn thương sọ não.

• Nhức đầu.

• Sau khi mổ bướu.

• Các chứng viêm : viêm màng bụng, viêm tai vòi, viêm ruột thừa, viêm cơ tim, viêm túi mật.

• Một số các trường hợp đau ngực, đau bụng.

Chống chỉ định Chườm lạnh :

• Xuất huyết ở phổi.

• Tuần hoàn cục bộ kém.

• Thân nhiệt thấp

• Người già yếu.

P/s :

Dù là phương pháp nào thì việc đầu tiên đối với một người bệnh vẫn phải làm là sám hối tội lỗi của mình trước dù là do vô tình (do không biết mà làm hại chúng sanh khác) hay cố tình (do chủ ý làm hại chúng sanh khác) thì mới mong được an lạc (an lạc tinh thần, an lạc thể xác) ở thời gian tiếp theo trong kiếp này và các kiếp về sau. Quý vị xem thêm phần “BỆNH NGHIỆP” sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Dù kiếp này, Quý vị nhờ phước báu gieo trong đời này và đời trước mà bệnh tình mau khỏi, nếu vẫn chưa giải quyết oan gia trong nhân quả (cách triệt để nhất là sám hối) thì khi “Cận tử nghiệp” đến rất khó tránh bị đòi nợ và đời sau vẫn phải trả. NAM MÔ PHẬT.

 

Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…

( Đã Xem : 51 )

print

Related Posts

Translate »